Tôi sinh ra ở nhà hộ sinh tư Bà Sâm. Tôi nghe chị tôi nói mẹ sinh tôi khó, bị băng huyết, không có sữa, phải gởi đi bú nhờ mẹ đứa bạn, sau này thành bạn thân tôi.
Ba tôi vất vả bương chải sinh nhai trên những chuyến xe Tam kỳ- Trà my- Tiên phước. Chị hai tôi vừa chăm một lũ em, vừa may vá thêm giúp mẹ ốm đau...
Chị kể, tôi ốm như con mắm, đen thui, biết thân biết phận, con mắt mở to ( như cái chén!), nằm chơi tự thân suốt ngày!
Khi bắt đầu đi học, được bà chị thứ sáu dắt vào lớp vỡ lòng thì tôi thấy mình sướng lắm. Đã không thấy ba tôi vất vả mưu sinh, đã không thấy anh chị tôi nhọc nhằn cuộc sống...
Chị dắt tôi đi bộ lên trường tiểu học Tam kỳ. Mà không hiểu sao bây chừ tôi còn nhớ. Chị đưa tôi vào lớp, cái lớp cuối cùng của dãy hàng ngang, phía trước có cây bàng với bồn gốc được khoanh bằng mấy viên gạch đỏ lát xéo, rồi đứng ngoài cửa chờ xem tôi có chịu học không? Tôi bíu tay chị. Cô giáo dỗ vô trong. Tôi khóc ầm ỉ rồi tôi cũng nín. Không gian rộng với nhiều bạn bè khóc lóc làm tôi...vui với những bài tập viết đầu tiên...
Trường tiểu học Tam kỳ. Cái trường hiền hoà nhất trong các trường mà tôi biết. Vào cổng. Đi vào giữa cột cờ, hai bên là hai hàng dương liễu xanh xanh, cắt tỉa gọn gàng. Phòng giám hiệu nhà trường phía bên tay trái. Dãy lớp học nằm ngang. Hai dãy đầu hồi nằm dọc. Bên tay phải là khoảng 4 phòng cho lớp nhứt, lớp nhì..
Phía bên trái của trường là khoảng đất trống và có "cái thành". Cái thành là chỗ chơi đùa của tôi giờ ra chơi ngoài đá kiện, đánh lộn, đuổi nhau...
Năm năm tiểu học với ngôi trường này mãi theo tôi cho đến bây giờ qua những giấc mộng bất chợt với con đường đất nhỏ có lạch nước chảy ngang chỗ nhà thờ tin lành, với không gian trước trường là kẽm gai đồn lính...mà tôi đã viết trong tạp văn Ký ức Tam kỳ...
Năm năm tiểu học với kỷ niệm những cuộc xô thành, với những bài văn được thầy Lễ khen, có con Bích Vân người Huế từ bé đã biết làm duyên (?), có thằng Phước vật nhau té bây chừ còn dấu sẹo...
Rồi trường trung học đệ nhất cấp Trần cao Vân trên đường TCV, nhà tôi đi lại chừng 200 bước chân. Tôi đi bộ đi học với đồng phục áo trắng quần xanh, bảng tên xanh (so sánh với cấp ba bảng tên màu đỏ) đầy kiêu hãnh...
Trường tôi đẹp lắm với các thầy cô tuyệt vời. Thầy Tài hiệu trưởng thấp bé mà oai phong, có cô vợ đài các người Huế. Thầy Vàng giám thị người Quảng ngãi hiền lành, Cô Huệ với đôi mắt thật to rất đẹp. Thầy Huấn, thầy Bổn dạy sử cùng những bài giáo dục công dân để tôi biết mình yêu nước, mơ Quang Trung, Lê Lợi.., Cô Lan mảnh khảnh đã gieo vào tâm hồn mơ mộng của tôi những bài ca dao hôm qua tát nước đầu đình, trèo lên cây bưởi hái hoa.., những áng văn Thạch Lam, những bài thơ Quang Dũng..., để trái tim tôi đã biết nao nao trước một mái tóc dài, một vành nón nghiêng nghiêng...
Trường cấp ba TCV mới cứng đón chúng tôi niên khoá đầu tiên với thầy Hồng, thầy Tro, thầy Mậu...
Tôi yêu TK như thế. Tôi yêu trường tôi như thế cho đến sau bảy lăm tất cả xáo trộn bát nháo làm tôi không còn trường cũ để về, lối cũ để thăm...
Trường xưa ngõ cũ chừ chỉ biết lục tìm trong ký ức...
...
Con sông TK vẫn chảy bình yên trong lắng sâu tâm hồn tôi với hoa sưa rực nắng. Những mái trường cổ tích vẫn dịu dàng đong đưa, những người bạn thân thương vẫn hò hẹn vui đùa, những thầy cô vẫn mong được một ngày tương ngộ...
Có lần một ĐN cuối tuần, mưa dầm dề hẩm hiu làm nhớ TK quay quay quắt quắt, tôi đã ôm đàn thốt lên bài Nhớ Tam Kỳ mà lần nào tập trung bạn TK tôi lại say sưa hát...
Nhớ Tam Kỳ,
Đôi khi chợt nhớ Tam kỳ,
Nhớ bún buổi sáng, nhớ mỳ buổi trưa,
Nhớ bè bạn, nhớ nắng mưa,
Nhớ cơm gà nay bà Ký, nhớ bún bò xưa bà Tề,
Nhớ Tam kỳ, nhớ não nề,
Nhớ ca, nhớ hát, nhớ về nhớ nhau,
Nhớ TK nhớ bạc đầu,
Nhớ tràn ly rượu đắng, nhớ nhạt nhoà từng câu thơ...
Đôi khi chợt nhớ TK,
Nhớ vui buổi trước, nhớ buồn buổi sau,
Nhớ kỷ niệm, nhớ chiêm bao,
Nhớ em đi mãi mà sao chưa về,
Nhớ TK nhớ bộn bề,
Nhớ lên, nhớ xuống, nhớ về nhớ nhau,
Nhớ TK! nhớ TK!
Có câu thơ cũ, có gì mà nhớ ghê???
Nguyễn Quang Chơn, tháng 12/2012